Cái tên “garnet” có nguồn gốc từ tiếng Latinh granatus, nguồn từ granum (“hạt, hạt giống”), có thể khơi gợi đến các hạt màu đỏ sặc sỡ của quả lựu, vốn có có hình dạng, kích thước và màu sắc tương tự. Garnet đỏ (thường gọi là ngọc hồng lựu) là một trong những loại đá quý phổ biến và rộng rãi nhất, được tìm thấy trong các loại đá biến chất ở mọi lục địa.
Trên thực tế, garnet là một tập hợp các loài khoáng vật có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một nhóm. Các thành viên của một nhóm có thể khác nhau về cấu trúc tinh thể hoặc thành phần hóa học, nhưng chúng luôn có những đặc điểm chung nào đó.
Garnet màu lục, hay tsavorite, cũng xuất hiện trong đá biến chất, nhưng hiếm hơn vì nó cần các chất hóa học và các điều kiện đặc biệt để hình thành. Spessartine, một loại garnet màu cam, thường được tìm thấy nhiều nhất trong các mạch pegmatite, cũng chỉ thỉnh thoảng được tìm thấy. Mức độ hiếm của từng loại garnet — đỏ, xanh lá cây và cam — có tác động trực tiếp đến giá trị tương đối của chúng.
Tất cả các loài garnet đều có các tính chất vật lý và dạng tinh thể giống nhau, nhưng khác nhau về thành phần hóa học.
Có hơn 20 loài garnet, trong đó sáu loại phổ biến nhất được sử dụng làm đá quý: pyrope, almandine, spessartine, grossular, and andradite. Loại thứ sáu, uvarovite, một loại garnet màu xanh chỉ xuất hiện với dạng các tinh thể rất nhỏ, không thể mài cắt
Mặc dù chúng được tìm thấy với nhiều màu sắc và thành phần khác nhau, garnet vẫn dễ dàng được nhận ra vì chúng thường được tìm thấy như những tinh thể có dạng lập phương cơ bản.
Hệ tinh thể lập phương là đặc điểm chung của Garnet
Nhóm Garnet
Mặc dù tất cả ngọc hồng lựu đều có chung cấu trúc tinh thể, các nhà ngọc học phân chia chúng theo cấu trúc hóa học của chúng – loại có chứa nhôm (Al) và loại có chứa canxi (Ca) như là một thành phần hóa học cơ bản của chúng.
Aluminum Garnet
Calcium Garnet
Hình tam giác trên cùng đại diện cho các garnet nhôm — pyrope, almandine và spessartine — và hình dưới là các garnet canxi — uvarovite, andradite, và grossular. Tại mỗi đỉnh của mỗi tam giác, có một loài garnet đại diện cho độ tinh khiết hóa học. Ví dụ, trong tam giác trên cùng, almandine là một garnet nhôm-sắt tinh khiết về mặt lý thuyết, và pyrope là một garnet nhôm-magie tinh khiết. Trong tự nhiên, không có viên garnet nào là tinh khiết, và các loại garnet kết hợp với nhau để tạo ra nhiều màu sắc và tính chất vật lý khác nhau.
Màu sắc
Garnet thường được biết đến với màu đỏ, nhưng chúng cũng có thể có màu cam, hồng, xanh lá cây, đen và nâu mật ong.
Pyrope và almandine có màu từ tím đến đỏ đậm. Spessartine thì thường có màu cam và vàng, trong khi andradite có màu vàng và xanh vàng. Grossular có lẽ có dải màu rộng nhất so với bất kỳ loài garnet nào, từ không màu đến màu vàng cam đến đỏ cam và đỏ đười ươi, đến màu xanh lá cây rực rỡ mạnh mẽ. Chúng ta có thể tìm hiểu về một vài cái tên quen thuộc dưới đây:
Pyrope
Loại garnet có màu đỏ này thường bị nhầm lẫn bởi ruby.
Almandine
Cũng có màu đỏ như Pyrope, tuy nhiên cấu trúc hóa học của nó khác.
Rhodolite
Rhodolite là sự kết hợp giữa pyrope và almandine. Rhodolite là một trong những loại garnet có giá trị nhất.
Malaya
Malaya là sự kết hợp mang màu hồng cam của pyrope, almandine và spessartine, thu hút ai tìm kiếm sự mới lạ.
Spessartine
Spessartine là loại garnet cam có giá trị nhất. Tuy nhiên chúng hay bị nhầm lẫn với Hessonite
Hessonite
Hessonite tương đối hiếm. Chúng có dải màu từ màu cam đến màu quế, tuy nhiên đá luôn có pha một chút nâu, nên giá trị không cao.
Demantoid
Demantoid đã được biết đến trong hơn một thế kỷ qua. Lần đầu tiên được phát hiện bởi những người khai thác vàng ở Dãy núi Ural của Nga vào giữa những năm 1800.
Tsarvorite
Vẻ đạp của Tsarvorite có thể sánh ngang với emerald. Loại garnet này cũng vô cùng hiếm.
Garnet sao
Garnet sao thì không hiếm như loại đá đổi màu. Thông thường là almandine hoặc rhodolite, garnet sao chứa đầy tỳ vết là các kim rutil gây ra hiện tượng sao. Các ngôi sao bốn tia là phổ biến, nhưng một số viên đá có thể có sáu tia, hoặc thậm chí là sự kết hợp của bốn và sáu tia trong cùng một viên đá. Garnet sao được tìm thấy ở Ấn Độ, Sri Lanka và bang Idaho của Mỹ.
Unusual 15.60ct star rhodolite garnet, believed to have come from the Kangala mine in Tanzania
Garnet đổi màu
Loại Garnet đặc biệt có khả năng đổi màu làm người ta liên tường đến những viên Alexandrite hiếm có, chúng có màu đỏ đậm dưới một nguồn sáng và có màu xanh lục, hoặc thậm chí là xanh lam dưới một nguồn sáng khác. Chúng rất hiếm và chỉ có một thị trường nhỏ gồm các nhà sưu tập tìm kiếm những viên đá kì lạ này này. Garnet đổi màu được khai thác ở Tanzania và Madagascar
Lịch sử của đá Garnet
Việc sử dụng garnet làm đá quý ít nhất đã có từ thời kỳ đồ đồng. Chúng đặc biệt được sử dụng dát trong các tác phẩm dát vàng với kỹ thuật cloisonné, một phong cách thường được gọi là garnet cloisonné. Nhiều người coi đây là điểm cao nhất của công việc garnet, và nó có thể được nhìn thấy ở Anglo-Saxon Anh tại Sutton Hoo và ở Staffordshire Hoard (xem trang.264–65).
Hàng ngàn năm trước, các pharaoh của Ai Cập đã mang những chiếc vòng cổ bằng đá garnet (ngọc hồng lựu) đỏ, và chúng được chôn cùng với xác ướp của những vị vua này như một tài sản quý giá mang sang thế giới bên kia. Vào thời La Mã cổ đại, những chiếc nhẫn chạm khắc garnet được sử dụng để đóng dấu sáp lên các tài liệu quan trọng. Nhiều thế kỷ sau, vào thời của Nhà triết học Pliny (23 đến 79 sau CN), garnet đỏ là một trong những loại đá quý được giao dịch rộng rãi nhất.
Vào thời Trung cổ (khoảng 475 đến 1450 sau Công nguyên), garnet đỏ được giới tăng lữ và quý tộc ưa chuộng. Tính sẵn có của nó tăng lên khi người ta phát hiện ra các mỏ garnet đỏ Bohemian nổi tiếng ở Trung Âu vào khoảng năm 1500. Nguồn này đã trở thành hạt nhân của ngành công nghiệp trang sức trong khu vực và đạt đến đỉnh cao vào cuối những năm 1800. Những viên garnet màu đỏ đã đạt được nhu cầu ổn định kể từ đó, được đặt làm đồ trang sức bằng đá quý và thời trang có giá vừa phải.
Ngày nay, garnet ngoài làm trang sức còn được sử dụng làm chất mài mòn, được sử dụng thay cho cát hoặc silica trong quá trình phun mài mòn. Garnet được sử dụng để cắt thép và các vật liệu khác trong các tia nước áp suất cao.
Các nguồn khai thác đá Garnet
Garnet thường được tìm thấy trong đá biến chất hoặc hiếm khi ở đá mácma. Các nguồn khai thác chính đá Garnet bao gồm Đông Phi, Nigeria, Namibia, Nga và Braxin. Ở bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về hoạt động khai thác các loại garnet ở ba quốc gia Đông Phi là Tazania, Kenya và Madagascar.
Khai thác Garnet ở Tazania
Tsarvorite
Tsavorite được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1967 ở miền bắc Tanzania, các mạch chạy từ Merelani đến Lemeshuku. Khu vực này sản sinh ra những viên Tsarvorite vô cùng hấp dẫn với tất cả các sắc thái của màu xanh lục, từ gần không màu không màu đến màu lục sẫm. Năm 1994, Tsarvorite được tìm thấy trên các con sông ở Quận Tunduru của miền Nam Tanzania, cùng với các loại garnet khác, ngoài ra còn có ngọc bích, hồng ngọc, chrysoberyl, kim cương, spinel và nhiều loại đá quý khác. Năm 1999, một mỏ lớn nữa được tìm thấy tại Đồi Namungu, cách Ruangwa 18 km về phía đông bắc, một thành phố nhỏ nổi tiếng với hạt điều, nằm giữa Tunduru và bờ biển Tanzania. Sản phẩm là Tsarvorite với các kích cỡ khác nhau, có những viên đá thô có trọng lượng lên đến 11 gram.
Large quantities of garnets – in several varieties were recovered from the Tunduru area of Tanzania. The mines are worked by simple methods, as shown by this pit at Libafu. A portable wet-sieving machine is being used to concentrate the gem rough.
Malaya
Những người thợ mỏ đã phát hiện ra malaya, một loại ngọc hồng lựu màu hồng nhạt đến đỏ cam, vào những năm 1960, khi đang khai thác rhodolite ở Thung lũng sông Umba của Tanzania. Ngày nay nơi đây là nguồn chính khai thác loại đá có màu sắc kì lạ này.
Aerial view of Umba valley, Tanzania.
Malaya garnet. 23cts. Umba River, Tanzania. 23cts. Bill Larson Collection.
Rhodolite
Châu Phi là nguồn cung quan trọng nhất của loại garnet đỏ này trong những năm gần đây. Rhodolite xuất hiện nhiều trong các loại đá biến chất cổ đại trên khắp Tanzania, mặc dù phần lớn sản lượng ban đầu đến từ sỏi ở dòng sông Umba.
Rough: Rhodolite garnet ( Umbalite). 490.24ct. 12x12mm. to 8x6mm. from Umba, Tanzania. Courtesy of New Era Gems. Steve Ulatowski.
Khai thác Garnet ở Kenya
Tsarvorite
Có một khu vực khai thác Tsarvorite mang tên Tsavo ở Nam Kenya. Nhiều hoạt động khai thác nhỏ nằm dọc theo một hệ thống đứt gãy kéo dài từ Đồi Taita của Kenya đến Thung lũng Umba ở phía bắc Tanzania, đi qua các khu vực Tsavo, Kasigau và Kuraze. Tsavorite được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1971 và đến nay, khu vực này có hơn mười mỏ tsavorite khác nhau đang vận hành. Hầu hết các hoạt động được thực hiện bằng cách đầu tiên thu thập mẫu khảo sát trên mặt đất, tiếp theo là đào rãnh và cuối cùng là đào hầm dưới lòng đất. Nhiều hoạt động được làm bằng tay và chỉ một số ít được cơ giới hóa.
Campbell Bridges in the Taita-Taveta Hills near the Scorpion tsavorite mine in Kenya.
This tree house is where Campbell Bridges stayed at night to avoid contact with dangerous wildlife passing by the Scorpion Mine.
Miners at the Scorpion Mine are working the wall of a tunnel to reach a tsavorite pocket.
Tsavorite pocket in the Scorpion mine.
The Bridges family cuts a percentage of the rough in Kenya by local cutters.
This impressive clean piece of tsavorite rough was extracted from a pocket at the Scorpion mine and is being examined before cutting in Kenya.
Left: “Scorpion King” garnet from Campbell Brigdes Mine, Taita Taveta, Kenya. 20.20 ct
Right: “Heart of Merelani” green grossular garnet (tsavorite) from Merelani, Tanzania. 21.56 ct
Courtesy of Somewhere in the Rainbow
Khai thác Garnet ở Madagascar
Tsarvorite
Tsarvorite được phát hiện vào năm 1991 gần làng Gogogogo ở phía nam Madagascar. Mỏ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Năm 1997, mỏ thứ hai được phát hiện gần làng Behara, cách nơi phát hiện ban đầu khoảng 20 km về phía nam. Khu vực khai thác nằm cách Ilakaka khoảng một ngày lái xe về phía nam, cách Ampanihy khoảng 40 km. Bên cạnh tsavorite, khu vực này còn được biết đến với các loại ngọc hồng lựu giàu vanadium đổi màu hấp dẫn.
Malaya
Khu vực Bekily ở miền nam Madagascar, cho ra đời các loại garnet chủ yếu có màu hồng đến hồng cam hay là Malaya, và ít phổ biến hơn là màu cam đỏ. Những viên garnet này lần đầu tiên xuất hiện tại thị trường địa phương vào khoảng năm 1997.
Muddied prospectors pan for gold in Manica Province, near the Zimbabwe border, September 17, 2010. Hundreds of miners work in individual claims rented from local landowners. REUTERS/Goran Tomasevic (MOZAMBIQUE – Tags: SOCIETY EMPLOYMENT BUSINESS)
Đánh giá giá trị của Garnet
Garnet, cũng như nhiều loại đá màu khác, được đánh giá giá trị dựa trên các nguyên tắc căn bản, đó là: Màu sắc, Độ tinh khiết, Chất lượng mài cắt, Trọng lượng carat. Tuy nhiên, Garnets không chỉ một mà là một nhóm bao gồm một số khoáng chất gần giống nhau, do đó, bề ngoài của chúng có thể khác nhau. Mỗi loại garnet lại có màu sắc riêng và độ hiếm riêng. Vì thế, việc đánh giá giá trị của loại đá này là tương đối phức tạp
Màu sắc
Màu sắc là yếu tố quan trọng nhất khi đánh giá đá màu. Tuy nhiên đối với garnet, mỗi màu mang thương hiệu riêng của chúng (ví dụ như Malaya hay Tsarvorite). Sau đây, chúng ta sẽ đánh giá vẻ đẹp và giá trị của từng màu trong thế giới garnet đầy màu sắc.
Màu đỏ (Rhodolite, Pyrope và Almandine)
Nhìn bằng mắt thường, khó có thể phân biệt được Pyrope và Almandine vì cơ bản cả hai loại này đều có màu đỏ. Dải màu của cả hai đều là các màu từ đỏ cam đến đỏ hơi tía đến đỏ tía đậm. Về cơ bản, những viên đá cao cấp nhất là loại có màu đỏ thuần khiết cực kỳ hấp dẫn và sánh ngang với ruby. Tuy nhiên phần lớn không đạt được màu đỏ mãnh liệt như vậy, vì thế giá trị của chúng thấp hơn.
Rhodolite là sự kết hợp giữa Pyrope và Almandine Garnet. Rhodolite có dải màu từ màu đỏ mâm xôi tía sẫm đến màu tím đỏ nhạt. Rhodolite là một trong những loại ngọc hồng lựu màu đỏ có giá trị nhất. Những viên đá tốt nhất có màu đỏ tía rực rỡ.
Màu cam (Spessartine, Hessionite, Malaya)
Spessartine có thể có dải màu từ cam vàng nhạt đến cam sáng và đến màu đỏ nâu sẫm. Màu sắc được ưa chuộng nhất là một màu hơi cam hơi đỏ, có độ bão hòa cao với tông màu trung bình hoặc tối hơn chút. Đá rất tối hoặc rất sáng ít có giá trị. Spessartine nhìn chung có tông màu sáng hơn almandine. Vì vậy trong khi các viên almandine lớn hầu như lúc nào cũng quá tối, các viên spessartine lớn luôn có màu đẹp. Một người thợ mài có thể tạo kiểu cho những viên đá quý spessartine có kích thước lớn mà không làm mất đi độ sáng hoặc màu sắc của chúng.
Malaya là một hỗn hợp của pyrope và spessartine, với một lượng nhỏ almandine. Loại đá này vì thế có màu hơi hồng đến đỏ cam, Màu sắc của nó làm cho nó nổi bật so nếu so với những viên Rhodolite đỏ.
Hessonite có màu cam đến màu quế, tuy nhiên chúng rất hiếm nên chưa bao giờ xuất hiện nhiều trên thị trường đá quý chính thống. Màu của Hessonite cũng pha chút nâu nên loại garnet này không được đánh giá cao như spessartine.
Màu xanh lục (Demantoid, Tsarvorite)
Tsavorite và demantoid là minh chứng cho thấy không phải tất cả các loại garnet đều phổ biến, có màu đỏ và rẻ tiền. Những viên garnet lớn, chất lượng cao và có màu xanh lá cây này là một trong những loại đá quý màu hiếm nhất và có giá trị nhất.
Tsavorite có được màu của nó nhờ nguyên tố vanadium, và dải màu của nó là từ màu xanh lục vàng đến xanh lục hơi xanh lam. Các màu được đánh giá cao nhất có xu hướng là xanh lục thuần khiết hoặc xanh lục với một chút xanh lam. Đá hơi vàng đôi khi cũng có nhu cầu cao, đặc biệt nếu màu sắc của chúng có độ bão hòa cao. Những mảng tối màu (gọi là extinction), có thể là một vấn đề ở một số viên đá sẫm màu, từ đó làm giảm giá trị của chúng. Màu sắc của những viên đá dưới nửa carat thường có xu hướng nhạt hơn, vì vậy những viên đá nhỏ, có màu sắc đẹp được bán với giá cao hơn.
Demantoid – loại đá có màu xanh lục của andradite – là một loại đá quý hiếm và có vẻ đẹp tuyệt vời. Với màu xanh lá cây sống động và chiết suất cao hơn kim cương, điều duy nhất khiến loại đá này không được biết đến rộng rãi hơn hơn là sự khan hiếm của nó.
Màu sắc của Demantoid bao gồm từ màu xanh lục hơi vàng hoặc hơi nâu đến màu xanh lục đậm tương tự như ngọc lục bảo. Màu đẹp nhất có thể là màu xanh lục đậm vừa, độ bão hòa cao và của tông màu trung bình đến trung bình-đậm. Màu xanh lục rực rỡ của loại đá quý này là do nguyên tố vi lượng crom.
Màu vàng (Topazolite)
Vì nguyên tố sắt là một phần hóa học thiết yếu của demantoid, nên hầu như luôn có một chút màu vàng trong loại đá quý này. Nếu có rất ít hoặc không có sự hiện diện của nguyên tố crom, màu vàng có thể chiếm ưu thế, tạo ra một loại đá có một loạt các màu vàng và nâu. Đôi khi người ta bắt gặp andradite có màu vàng tinh khiết, hấp dẫn dưới cái tên “topazolite”.
Độ tinh khiết
Độ trong hình phụ thuộc vào loại garnet. Ví dụ, các garnet đỏ như almandine, pyrope và rhodolite thường không có tỳ vết có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Một số garnet cam, như spessartine và hessonite, thường có tỳ vết có thể nhìn thấy bằng thường. Grossular thường trong mờ, làm cho chúng phổ biến để mài thành cabochon, hạt và chạm khắc. Nhìn chung, độ tinh khiết cao chứng tỏ đá có chất lượng và giá trị cao.
Mài cắt
Nhiều loại garnet được cắt thành hình dạng tiêu chuẩn và kích thước tiêu chuẩn để cho phép dễ dàng đặt lên đồ trang sức. Điều này đặc biệt đúng với những viên garnet màu đỏ. Còn những loại đắt tiền như tsavorite cao cấp được cắt thành các hình dạng và kiểu cắt cho phép giữ lại nhiều trọng lượng nhất từ viên đá thô.
Phần lớn garnet được cắt theo những kích thước tiêu chuẩn để tiết kiệm chi phí và dễ lên đồ trang sức.
Demantoid có chiết suất rất cao, vì thế chúng thường được cắt theo tỷ lệ chính xác để có nhiều ánh lửa nhất. Garnet cũng rất phổ biến để chạm khắc và cắt những kiểu độc lạ, và được mài thành cabochon và hạt..
Trọng lượng carat
Garnet có thể được tìm thấy ở mọi kích cỡ và trọng lượng. Một số loại, như demantoid và tsavorite, thường được tìm thấy ở kích thước nhỏ, vì vậy giá trị của chúng tăng lên đáng kể theo kích thước tăng dần. Các loại khác, như almandine, phổ biến hơn nhiều ở kích thước lớn, do đó, không có sự gia tăng đáng kể về giá trị khi kích thước tăng lên.
Garnet – Ngọc Hồng Lựu – Đặc điểm, nguồn gốc và giá trị
Cái tên “garnet” có nguồn gốc từ tiếng Latinh granatus, nguồn từ granum (“hạt, hạt giống”), có thể khơi gợi đến các hạt màu đỏ sặc sỡ của quả lựu, vốn có có hình dạng, kích thước và màu sắc tương tự. Garnet đỏ (thường gọi là ngọc hồng lựu) là một trong những loại đá quý phổ biến và rộng rãi nhất, được tìm thấy trong các loại đá biến chất ở mọi lục địa.
Trên thực tế, garnet là một tập hợp các loài khoáng vật có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một nhóm. Các thành viên của một nhóm có thể khác nhau về cấu trúc tinh thể hoặc thành phần hóa học, nhưng chúng luôn có những đặc điểm chung nào đó.
Garnet màu lục, hay tsavorite, cũng xuất hiện trong đá biến chất, nhưng hiếm hơn vì nó cần các chất hóa học và các điều kiện đặc biệt để hình thành. Spessartine, một loại garnet màu cam, thường được tìm thấy nhiều nhất trong các mạch pegmatite, cũng chỉ thỉnh thoảng được tìm thấy. Mức độ hiếm của từng loại garnet — đỏ, xanh lá cây và cam — có tác động trực tiếp đến giá trị tương đối của chúng.
Đặc điểm của Garnet
Andradite – Ca3Fe2(SiO4)3
Grossular – Ca3Al2(SiO4)3
Pyrope – Mg3Al2(SiO4)3
Rhodolite – (Mg, Fe)3Al2(SiO4)3
Spessartine – Mn3Al2(SiO4)3
Tất cả các loài garnet đều có các tính chất vật lý và dạng tinh thể giống nhau, nhưng khác nhau về thành phần hóa học.
Có hơn 20 loài garnet, trong đó sáu loại phổ biến nhất được sử dụng làm đá quý: pyrope, almandine, spessartine, grossular, and andradite. Loại thứ sáu, uvarovite, một loại garnet màu xanh chỉ xuất hiện với dạng các tinh thể rất nhỏ, không thể mài cắt
Mặc dù chúng được tìm thấy với nhiều màu sắc và thành phần khác nhau, garnet vẫn dễ dàng được nhận ra vì chúng thường được tìm thấy như những tinh thể có dạng lập phương cơ bản.
Nhóm Garnet
Mặc dù tất cả ngọc hồng lựu đều có chung cấu trúc tinh thể, các nhà ngọc học phân chia chúng theo cấu trúc hóa học của chúng – loại có chứa nhôm (Al) và loại có chứa canxi (Ca) như là một thành phần hóa học cơ bản của chúng.
Aluminum Garnet
Calcium Garnet
Hình tam giác trên cùng đại diện cho các garnet nhôm — pyrope, almandine và spessartine — và hình dưới là các garnet canxi — uvarovite, andradite, và grossular. Tại mỗi đỉnh của mỗi tam giác, có một loài garnet đại diện cho độ tinh khiết hóa học. Ví dụ, trong tam giác trên cùng, almandine là một garnet nhôm-sắt tinh khiết về mặt lý thuyết, và pyrope là một garnet nhôm-magie tinh khiết. Trong tự nhiên, không có viên garnet nào là tinh khiết, và các loại garnet kết hợp với nhau để tạo ra nhiều màu sắc và tính chất vật lý khác nhau.
Màu sắc
Garnet thường được biết đến với màu đỏ, nhưng chúng cũng có thể có màu cam, hồng, xanh lá cây, đen và nâu mật ong.
Pyrope và almandine có màu từ tím đến đỏ đậm. Spessartine thì thường có màu cam và vàng, trong khi andradite có màu vàng và xanh vàng. Grossular có lẽ có dải màu rộng nhất so với bất kỳ loài garnet nào, từ không màu đến màu vàng cam đến đỏ cam và đỏ đười ươi, đến màu xanh lá cây rực rỡ mạnh mẽ. Chúng ta có thể tìm hiểu về một vài cái tên quen thuộc dưới đây:
Pyrope
Loại garnet có màu đỏ này thường bị nhầm lẫn bởi ruby.
Almandine
Cũng có màu đỏ như Pyrope, tuy nhiên cấu trúc hóa học của nó khác.
Rhodolite
Rhodolite là sự kết hợp giữa pyrope và almandine. Rhodolite là một trong những loại garnet có giá trị nhất.
Malaya
Malaya là sự kết hợp mang màu hồng cam của pyrope, almandine và spessartine, thu hút ai tìm kiếm sự mới lạ.
Spessartine
Spessartine là loại garnet cam có giá trị nhất. Tuy nhiên chúng hay bị nhầm lẫn với Hessonite
Hessonite
Hessonite tương đối hiếm. Chúng có dải màu từ màu cam đến màu quế, tuy nhiên đá luôn có pha một chút nâu, nên giá trị không cao.
Demantoid
Demantoid đã được biết đến trong hơn một thế kỷ qua. Lần đầu tiên được phát hiện bởi những người khai thác vàng ở Dãy núi Ural của Nga vào giữa những năm 1800.
Tsarvorite
Vẻ đạp của Tsarvorite có thể sánh ngang với emerald. Loại garnet này cũng vô cùng hiếm.
Garnet sao
Garnet sao thì không hiếm như loại đá đổi màu. Thông thường là almandine hoặc rhodolite, garnet sao chứa đầy tỳ vết là các kim rutil gây ra hiện tượng sao. Các ngôi sao bốn tia là phổ biến, nhưng một số viên đá có thể có sáu tia, hoặc thậm chí là sự kết hợp của bốn và sáu tia trong cùng một viên đá. Garnet sao được tìm thấy ở Ấn Độ, Sri Lanka và bang Idaho của Mỹ.
Garnet đổi màu
Loại Garnet đặc biệt có khả năng đổi màu làm người ta liên tường đến những viên Alexandrite hiếm có, chúng có màu đỏ đậm dưới một nguồn sáng và có màu xanh lục, hoặc thậm chí là xanh lam dưới một nguồn sáng khác. Chúng rất hiếm và chỉ có một thị trường nhỏ gồm các nhà sưu tập tìm kiếm những viên đá kì lạ này này. Garnet đổi màu được khai thác ở Tanzania và Madagascar
Lịch sử của đá Garnet
Việc sử dụng garnet làm đá quý ít nhất đã có từ thời kỳ đồ đồng. Chúng đặc biệt được sử dụng dát trong các tác phẩm dát vàng với kỹ thuật cloisonné, một phong cách thường được gọi là garnet cloisonné. Nhiều người coi đây là điểm cao nhất của công việc garnet, và nó có thể được nhìn thấy ở Anglo-Saxon Anh tại Sutton Hoo và ở Staffordshire Hoard (xem trang.264–65).
Hàng ngàn năm trước, các pharaoh của Ai Cập đã mang những chiếc vòng cổ bằng đá garnet (ngọc hồng lựu) đỏ, và chúng được chôn cùng với xác ướp của những vị vua này như một tài sản quý giá mang sang thế giới bên kia. Vào thời La Mã cổ đại, những chiếc nhẫn chạm khắc garnet được sử dụng để đóng dấu sáp lên các tài liệu quan trọng. Nhiều thế kỷ sau, vào thời của Nhà triết học Pliny (23 đến 79 sau CN), garnet đỏ là một trong những loại đá quý được giao dịch rộng rãi nhất.
Vào thời Trung cổ (khoảng 475 đến 1450 sau Công nguyên), garnet đỏ được giới tăng lữ và quý tộc ưa chuộng. Tính sẵn có của nó tăng lên khi người ta phát hiện ra các mỏ garnet đỏ Bohemian nổi tiếng ở Trung Âu vào khoảng năm 1500. Nguồn này đã trở thành hạt nhân của ngành công nghiệp trang sức trong khu vực và đạt đến đỉnh cao vào cuối những năm 1800. Những viên garnet màu đỏ đã đạt được nhu cầu ổn định kể từ đó, được đặt làm đồ trang sức bằng đá quý và thời trang có giá vừa phải.
Ngày nay, garnet ngoài làm trang sức còn được sử dụng làm chất mài mòn, được sử dụng thay cho cát hoặc silica trong quá trình phun mài mòn. Garnet được sử dụng để cắt thép và các vật liệu khác trong các tia nước áp suất cao.
Các nguồn khai thác đá Garnet
Garnet thường được tìm thấy trong đá biến chất hoặc hiếm khi ở đá mácma. Các nguồn khai thác chính đá Garnet bao gồm Đông Phi, Nigeria, Namibia, Nga và Braxin. Ở bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về hoạt động khai thác các loại garnet ở ba quốc gia Đông Phi là Tazania, Kenya và Madagascar.
Khai thác Garnet ở Tazania
Tsarvorite
Tsavorite được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1967 ở miền bắc Tanzania, các mạch chạy từ Merelani đến Lemeshuku. Khu vực này sản sinh ra những viên Tsarvorite vô cùng hấp dẫn với tất cả các sắc thái của màu xanh lục, từ gần không màu không màu đến màu lục sẫm. Năm 1994, Tsarvorite được tìm thấy trên các con sông ở Quận Tunduru của miền Nam Tanzania, cùng với các loại garnet khác, ngoài ra còn có ngọc bích, hồng ngọc, chrysoberyl, kim cương, spinel và nhiều loại đá quý khác. Năm 1999, một mỏ lớn nữa được tìm thấy tại Đồi Namungu, cách Ruangwa 18 km về phía đông bắc, một thành phố nhỏ nổi tiếng với hạt điều, nằm giữa Tunduru và bờ biển Tanzania. Sản phẩm là Tsarvorite với các kích cỡ khác nhau, có những viên đá thô có trọng lượng lên đến 11 gram.
Malaya
Những người thợ mỏ đã phát hiện ra malaya, một loại ngọc hồng lựu màu hồng nhạt đến đỏ cam, vào những năm 1960, khi đang khai thác rhodolite ở Thung lũng sông Umba của Tanzania. Ngày nay nơi đây là nguồn chính khai thác loại đá có màu sắc kì lạ này.
Rhodolite
Châu Phi là nguồn cung quan trọng nhất của loại garnet đỏ này trong những năm gần đây. Rhodolite xuất hiện nhiều trong các loại đá biến chất cổ đại trên khắp Tanzania, mặc dù phần lớn sản lượng ban đầu đến từ sỏi ở dòng sông Umba.
Khai thác Garnet ở Kenya
Tsarvorite
Có một khu vực khai thác Tsarvorite mang tên Tsavo ở Nam Kenya. Nhiều hoạt động khai thác nhỏ nằm dọc theo một hệ thống đứt gãy kéo dài từ Đồi Taita của Kenya đến Thung lũng Umba ở phía bắc Tanzania, đi qua các khu vực Tsavo, Kasigau và Kuraze. Tsavorite được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1971 và đến nay, khu vực này có hơn mười mỏ tsavorite khác nhau đang vận hành. Hầu hết các hoạt động được thực hiện bằng cách đầu tiên thu thập mẫu khảo sát trên mặt đất, tiếp theo là đào rãnh và cuối cùng là đào hầm dưới lòng đất. Nhiều hoạt động được làm bằng tay và chỉ một số ít được cơ giới hóa.
Khai thác Garnet ở Madagascar
Tsarvorite
Tsarvorite được phát hiện vào năm 1991 gần làng Gogogogo ở phía nam Madagascar. Mỏ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Năm 1997, mỏ thứ hai được phát hiện gần làng Behara, cách nơi phát hiện ban đầu khoảng 20 km về phía nam. Khu vực khai thác nằm cách Ilakaka khoảng một ngày lái xe về phía nam, cách Ampanihy khoảng 40 km. Bên cạnh tsavorite, khu vực này còn được biết đến với các loại ngọc hồng lựu giàu vanadium đổi màu hấp dẫn.
Malaya
Khu vực Bekily ở miền nam Madagascar, cho ra đời các loại garnet chủ yếu có màu hồng đến hồng cam hay là Malaya, và ít phổ biến hơn là màu cam đỏ. Những viên garnet này lần đầu tiên xuất hiện tại thị trường địa phương vào khoảng năm 1997.
Đánh giá giá trị của Garnet
Garnet, cũng như nhiều loại đá màu khác, được đánh giá giá trị dựa trên các nguyên tắc căn bản, đó là: Màu sắc, Độ tinh khiết, Chất lượng mài cắt, Trọng lượng carat. Tuy nhiên, Garnets không chỉ một mà là một nhóm bao gồm một số khoáng chất gần giống nhau, do đó, bề ngoài của chúng có thể khác nhau. Mỗi loại garnet lại có màu sắc riêng và độ hiếm riêng. Vì thế, việc đánh giá giá trị của loại đá này là tương đối phức tạp
Màu sắc
Màu sắc là yếu tố quan trọng nhất khi đánh giá đá màu. Tuy nhiên đối với garnet, mỗi màu mang thương hiệu riêng của chúng (ví dụ như Malaya hay Tsarvorite). Sau đây, chúng ta sẽ đánh giá vẻ đẹp và giá trị của từng màu trong thế giới garnet đầy màu sắc.
Màu đỏ (Rhodolite, Pyrope và Almandine)
Nhìn bằng mắt thường, khó có thể phân biệt được Pyrope và Almandine vì cơ bản cả hai loại này đều có màu đỏ. Dải màu của cả hai đều là các màu từ đỏ cam đến đỏ hơi tía đến đỏ tía đậm. Về cơ bản, những viên đá cao cấp nhất là loại có màu đỏ thuần khiết cực kỳ hấp dẫn và sánh ngang với ruby. Tuy nhiên phần lớn không đạt được màu đỏ mãnh liệt như vậy, vì thế giá trị của chúng thấp hơn.
Rhodolite là sự kết hợp giữa Pyrope và Almandine Garnet. Rhodolite có dải màu từ màu đỏ mâm xôi tía sẫm đến màu tím đỏ nhạt. Rhodolite là một trong những loại ngọc hồng lựu màu đỏ có giá trị nhất. Những viên đá tốt nhất có màu đỏ tía rực rỡ.
Màu cam (Spessartine, Hessionite, Malaya)
Spessartine có thể có dải màu từ cam vàng nhạt đến cam sáng và đến màu đỏ nâu sẫm. Màu sắc được ưa chuộng nhất là một màu hơi cam hơi đỏ, có độ bão hòa cao với tông màu trung bình hoặc tối hơn chút. Đá rất tối hoặc rất sáng ít có giá trị. Spessartine nhìn chung có tông màu sáng hơn almandine. Vì vậy trong khi các viên almandine lớn hầu như lúc nào cũng quá tối, các viên spessartine lớn luôn có màu đẹp. Một người thợ mài có thể tạo kiểu cho những viên đá quý spessartine có kích thước lớn mà không làm mất đi độ sáng hoặc màu sắc của chúng.
Malaya là một hỗn hợp của pyrope và spessartine, với một lượng nhỏ almandine. Loại đá này vì thế có màu hơi hồng đến đỏ cam, Màu sắc của nó làm cho nó nổi bật so nếu so với những viên Rhodolite đỏ.
Hessonite có màu cam đến màu quế, tuy nhiên chúng rất hiếm nên chưa bao giờ xuất hiện nhiều trên thị trường đá quý chính thống. Màu của Hessonite cũng pha chút nâu nên loại garnet này không được đánh giá cao như spessartine.
Màu xanh lục (Demantoid, Tsarvorite)
Tsavorite và demantoid là minh chứng cho thấy không phải tất cả các loại garnet đều phổ biến, có màu đỏ và rẻ tiền. Những viên garnet lớn, chất lượng cao và có màu xanh lá cây này là một trong những loại đá quý màu hiếm nhất và có giá trị nhất.
Tsavorite có được màu của nó nhờ nguyên tố vanadium, và dải màu của nó là từ màu xanh lục vàng đến xanh lục hơi xanh lam. Các màu được đánh giá cao nhất có xu hướng là xanh lục thuần khiết hoặc xanh lục với một chút xanh lam. Đá hơi vàng đôi khi cũng có nhu cầu cao, đặc biệt nếu màu sắc của chúng có độ bão hòa cao. Những mảng tối màu (gọi là extinction), có thể là một vấn đề ở một số viên đá sẫm màu, từ đó làm giảm giá trị của chúng. Màu sắc của những viên đá dưới nửa carat thường có xu hướng nhạt hơn, vì vậy những viên đá nhỏ, có màu sắc đẹp được bán với giá cao hơn.
Demantoid – loại đá có màu xanh lục của andradite – là một loại đá quý hiếm và có vẻ đẹp tuyệt vời. Với màu xanh lá cây sống động và chiết suất cao hơn kim cương, điều duy nhất khiến loại đá này không được biết đến rộng rãi hơn hơn là sự khan hiếm của nó.
Màu sắc của Demantoid bao gồm từ màu xanh lục hơi vàng hoặc hơi nâu đến màu xanh lục đậm tương tự như ngọc lục bảo. Màu đẹp nhất có thể là màu xanh lục đậm vừa, độ bão hòa cao và của tông màu trung bình đến trung bình-đậm. Màu xanh lục rực rỡ của loại đá quý này là do nguyên tố vi lượng crom.
Màu vàng (Topazolite)
Vì nguyên tố sắt là một phần hóa học thiết yếu của demantoid, nên hầu như luôn có một chút màu vàng trong loại đá quý này. Nếu có rất ít hoặc không có sự hiện diện của nguyên tố crom, màu vàng có thể chiếm ưu thế, tạo ra một loại đá có một loạt các màu vàng và nâu. Đôi khi người ta bắt gặp andradite có màu vàng tinh khiết, hấp dẫn dưới cái tên “topazolite”.
Độ tinh khiết
Độ trong hình phụ thuộc vào loại garnet. Ví dụ, các garnet đỏ như almandine, pyrope và rhodolite thường không có tỳ vết có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Một số garnet cam, như spessartine và hessonite, thường có tỳ vết có thể nhìn thấy bằng thường. Grossular thường trong mờ, làm cho chúng phổ biến để mài thành cabochon, hạt và chạm khắc. Nhìn chung, độ tinh khiết cao chứng tỏ đá có chất lượng và giá trị cao.
Mài cắt
Nhiều loại garnet được cắt thành hình dạng tiêu chuẩn và kích thước tiêu chuẩn để cho phép dễ dàng đặt lên đồ trang sức. Điều này đặc biệt đúng với những viên garnet màu đỏ. Còn những loại đắt tiền như tsavorite cao cấp được cắt thành các hình dạng và kiểu cắt cho phép giữ lại nhiều trọng lượng nhất từ viên đá thô.
Demantoid có chiết suất rất cao, vì thế chúng thường được cắt theo tỷ lệ chính xác để có nhiều ánh lửa nhất. Garnet cũng rất phổ biến để chạm khắc và cắt những kiểu độc lạ, và được mài thành cabochon và hạt..
Trọng lượng carat
Garnet có thể được tìm thấy ở mọi kích cỡ và trọng lượng. Một số loại, như demantoid và tsavorite, thường được tìm thấy ở kích thước nhỏ, vì vậy giá trị của chúng tăng lên đáng kể theo kích thước tăng dần. Các loại khác, như almandine, phổ biến hơn nhiều ở kích thước lớn, do đó, không có sự gia tăng đáng kể về giá trị khi kích thước tăng lên.