Tên của Aquamarine bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là “nước biển” và nó được cho là có tác dụng làm dịu đi những cơn sóng sóng và giữ an toàn cho các thủy thủ trên biển. Thuật ngữ cụ thể “aquamarine” Anselmus de Boodt sử dụng trong một công trình nghiên cứu đá quý quan trọng trong cuốn Gemmarum et Lapidum Historiia của ông, “được xuất bản vào năm 1609. Aquamarine là một loại đá quý có giá trị suốt từ thời cổ đại. Vào thế kỷ 19, loại màu xanh lục biển là phổ biến nhất, nhưng ngày nay, đá càng xanh lam thì càng có giá trị.
Viên đá sinh của tháng ba cũng được cho là có tác dụng nâng cao hạnh phúc của các cuộc hôn nhân. Những viên đá quý tốt nhất là sự kết hợp giữa độ tinh khiết cao với màu xanh lam đến hơi xanh lục. Giống như nhiều khoáng vật beryl khác, aquamarine tạo thành ở dạng các tinh thể lớn thích hợp cho sản phẩm chạm khắc và và những đá quý có kích thước khá lớn.
Đặc điểm của Aquamarine
Tên khoa học
Beryl
Hệ tinh thể
Hexagonal
Tên thương mại
Aquamarine
Cát khai
none
Công thức hóa học
Be3Al2Si6O18
Độ dai
good
Tên hóa học
Beryl
Màu sắc
xanh, xanh lam ngả xanh lá
Độ cứng Mohs
7 – 8
Độ bóng
ánh thủy tinh
Tỉ khối
2.72
Huỳnh quang
không
Chiết suất
1.577 – 1.583
Nguồn khai thác
Brazil, Zambia, Nigeria, Hoa Kì, Nga
Aquamarine là loại có màu từ xanh lục đến xanh lam của khoáng chất beryl. (Còn Ngọc lục bảo (emerald) là loại màu xanh lục đến xanh lục của cùng một loại khoáng chất beryl này.) Màu của nó thường là xanh lục nhạt.
Tính chất vật lý
Độ cứng
Độ cứng của aquamarine rơi vào tầm 7.5 tới 8.0. Điều này làm cho loại đá quý này phù hợp với hầu hết các kiểu trang sức.
Độ dai
Độ dai của aquamarine là tốt, và hiện tượng cát khai là rất hiếm gặp. Vì thế loại đá này (nếu không phải là hàng có độ trong cao) thì rất thường được chạm khắc thành các tác phẩm nghệ thuật.
Độ tinh khiết
Nhìn chung aquamarine có độ sạch cao, nhưng viên đá mài giác thường có độ sạch eye-clean.
Kích thước tinh thế
Tinh thể biểu lộ hình thù là trụ lục giác rất cân đối. Loại đá này vì thế là mục tiêu ưa thích của các nhà sưu tập mẫu khoáng vật. Tinh thể lớn nhất được ghi nhận được tìm thấy vào năm 1910, ở Minas Gerais, Brazil. Nó nặng 244 lbs. (110 kg) và dài 19 inch (48 cm) và đường kính 15 inch (38 cm).
Tính chất quang học
Màu sắc
Phạm vi màu của aquamarine rất hẹp: Nó có thể có màu xanh lam, xanh lam hơi ngả xanh lục, xanh lam lục, xanh lam rất đậm hoặc xanh lục lam. Xử lý nhiệt thường làm cho nó có vẻ ngoài ngả màu xanh lam hơn.
Những viên aquamarine thường phải khá lớn — trên 5 carat — để có màu mãnh liệt và đậm. Mặc dù những viên đá nhỏ hiếm khi đủ độ bão hòa màu để trở nên hấp dẫn, đá từ một số mỏ ở châu Phi – ví dụ như Nigeria, Madagascar và Mozambique – được biết đến với màu sắc đậm với kích thước dưới 5 carat. Vì lý do này, những viên đá nhỏ hơn, có màu sắc trên cùng có thể được bán với giá cao hơn trên mỗi carat so với những viên đá cùng màu lớn hơn.
Tính đa sắc
Aquamarine là loại đá có tính đa sắc (pleochroic), có nghĩa là nó có màu khác nhau khi nhìn theo các hướng khác nhau — trong trường hợp của aquamarine, đó là không màu và xanh lam đậm. May mắn thay, màu xanh lam xuất hiện tương ứng với hướng cắt. Trường hợp này mặt table được căn chỉnh song song với chiều dài của tinh thể.
Lịch sử và câu chuyện về Aquamarine
Cái tên “aquamarine” có nguồn gốc từ hai từ Latinh: aqua, nghĩa là “nước” và marina, nghĩa là “của biển.”
Các ngư dân La Mã gọi loại đá quý này là “nước của biển” và sử dụng nó như một vật bảo vệ, cho việc đi lại an toàn bằng thuyền và để đánh bắt cá may mắn. Aquamarine có liên hệ với thánh Thomas, vị tông đồ thường xuyên di chuyển bằng thuyền. Các thầy thuốc La Mã cũng sử dụng nó để điều trị chứng ăn quá nhiều và đầy hơi.
Người Sumer, Ai Cập, Hebrew và Hy Lạp đều ngưỡng mộ đá quý aquamarine. Những hạt đá được phát hiện cùng với các xác ướp Ai Cập. Và người ta tin rằng thầy tế lễ cả của Đền thờ thứ hai đeo những viên đá aquamarine có khắc hình sáu bộ tộc của Israel. Hai nghìn năm trước, những người ở Hy Lạp đã khắc các thiết kế vào đá aquamarine, biến chúng thành hình chạm khắc chìm.
Người ta nói rằng aquamarine mang lại cho người đeo sự bảo vệ chống lại kẻ thù trong trận chiến. Nó làm cho người mang trở nên bất khuất và dễ mến, đồng thời cũng nâng cao trí tuệ người đeo nó.
Aquamarine là đá sinh của tháng ba
Nguồn gốc của Aquamarine
Brazil
Brazil là nguồn cung cấp aquamarine chất lượng cao quan trọng nhất trên thế giới kể từ năm 1811, khi một người thợ mỏ tìm thấy một tinh thể aquamarine lớn ở đáy sông gần Teofilo Otoni. Nó nặng khoảng 7 kg và là tinh thể aquamarine lớn đầu tiên từng được ghi nhận. Kể từ khi phát hiện ra viên tinh thể kỷ lục này, hàng triệu carat aquamarine hảo hạng đã được tìm thấy trong hàng nghìn mỏ khai thác khắp khu vực.
Khi những người nhập cư Đức định cư ở Brazil vào khoảng năm 1850, họ phát hiện ra rằng họ có thể đào aquamarine hầu hết mọi nơi, với hầu hết mọi loại thiết bị và tạo ra các tinh thể aquamarine. Ai đó đã gửi những vật mẫu đến Idar-Oberstein – lúc đó cũng như bây giờ, là một trung tâm cắt mài đá quý quan trọng – để kiểm tra. Đó là sự khởi đầu của mối quan hệ khai thác – tiếp thị chặt chẽ giữa thợ mỏ Brazil và thợ cắt Đức. Hầu hết các mỏ aquamarine nằm ở phía đông bắc Minas Gerais. Trong lịch sử, aquamarine và các loại đá quý khác được tìm thấy dưới đáy sông hoặc đã được đào lên khỏi mặt đất bởi những người khai thác độc lập gọi là garimpeiros. Bởi vì luật mới khiến các garimpeiros khó hoạt động, một phần nhiều các hoạt động khai thác ở đây đã được cơ giới hóa.
Pakistan
Trong những thập kỷ gần đây, trên thị trường có một nguồn cung aquamarine ổn định đến từ miền bắc Pakistan. Aquamarine được khai thác chủ yếu từ vùng Gilgit-Baltistan, bao gồm Thung lũng Shigar, cũng như Thung lũng Hunza và Braldu.
Hầu hết aquamarine từ miền bắc Pakistan có dạng hình lăng kính dài hình lục giác và có thể dài tới hàng chục cm. Albite, muscovite và tourmaline (schorl) thường được kết hợp với nhau dưới dạng ma trận, vì thế hầu hết chúng được sưu tầm dưới dạng mẫu vật khoáng chất. Một phần trong số đó chất lượng đá quý và phù hợp để sử dụng làm đồ trang sức.
Figure 41. The aquamarine crystal on feldspar from the Shigar Valley in Pakistan measures 17 cm tall. Photo by Joe Budd, courtesy of Arkenstone.
Con đường Aquamarine
Câu chuyện của bộ phim này là cuộc tìm kiếm một loại đá quý, đặc biệt về hình thức và quyến rũ về màu sắc của bầu trời của nó: aquamarine.
Trong các thung lũng của dãy Karakoram ở phía bắc Pakistan, một phần mở rộng của dãy Himalaya nơi có những ngọn núi cao hơn 8.000 mét, người ta tìm thấy những viên đá tuyệt vời này trong một mỏ nằm trên cao.
Cuộc hành trình này sẽ đưa chúng ta băng qua Pakistan đi qua Lahore, một thành phố là nơi ở của những đô vật làm gợi nhớ đến những Sumo của nhật: truyền thống của họ có từ thời tổ tiên và những phong tục của họ thật đáng kinh ngạc; sư tử đối với họ là người bạn đồng hành.
Các con đường dẫn đến phía Bắc với những chiếc xe tải được trang trí như những tạo vật của nghệ thuật, gợi nhớ cho chúng ta những đoàn lữ hành cổ men theo Con Đường Tơ Lụa.
Vào cuối cuộc hành trình, trong một ngôi làng nằm trên độ cao hơn 3.000 mét, những người chăn cừu giờ đây trở thành những người thợ mỏ khai thác mỏ Chumar Bakar. Sản phẩm chủ yếu của họ là các khối tinh thể aquamarine, một số có trọng lượng vài kg. Niềm tin cổ xưa khiến họ phải tham khảo ý kiến của một pháp sư trước khi ra đi để bảo vệ mình khỏi cơn thịnh nộ của các tiên nữ ngự trị trên những ngọn núi này. Những viên đá được khai thác sẽ theo cùng một tuyến đường ấy để trở về, và chúng sẽ kết thúc cuộc hành trình của mình tại các tiệm kim hoàn tại Place Vendôme ở Paris.
Trung Quốc
Vào những năm 1990, Trung Quốc nổi lên như một nước sản xuất số lượng lớn aquamarine kích thước nhỏ có chất lượng thương mại. Phần lớn aquamarine ở Trung Quốc được khai thác ở huyện Phú Uẩn thuộc khu tự trị Tân Cương, Vào giữa những năm 1990, aquamarine từ khu vực đã thâm nhập vào thị trường châu Âu và Mỹ thông qua Quảng Châu, Thâm Quyến và những nơi khác, và giành được sự yêu thích của người tiêu dùng vì giá rẻ và độ sẵn có.
Hầu hết các aquamarine đến từ Trung Quốc có kích thước nhỏ, sạch và có màu rất nhạt. Chúng được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các đồ trang sức trên thị trường đại chúng thông qua các mạng lưới mua sắm tại nhà và các chuỗi cửa hàng khác.
Việt Nam
Aquamarine được phát hiện ở Việt Nam vào năm 1985 tại làng Xuân Lễ (huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong quá trình lập bản đồ địa chất của chính phủ. Theo các người bán ở địa phương, khoảng 100–150 kg đá quý được người dân địa phương khai tháchàng năm trong suốt thập kỷ qua, và trong năm 2010, khoảng 300–400 kg đã được khai thác.
Aquamarine Việt Nam nổi tiếng với màu sắc hấp dẫn và các tinh thể có hình dạng tốt. Tuy nhiên vì phương pháp khai thác thô sơ và só lượng sản phẩm hạn chế, cho đến nay, chỉ một số ít đá quý được chế tác và chủ yếu được bán vào thị trường Việt Nam
Đánh giá giá trị của Aquamarine
Trên thị trường thương mại, aquamarine và topaz xanh thường được nhắc đến khi người mua muốn chọn một viên đá quý có màu xanh. Nhưng aquamarine cao cấp được bán với giá cao hơn nhiều so với topaz xanh có chất lượng tương đương. Cũng như nhiều loại đá quý trong suốt khác, aquamarine được đánh giá theo nguyên tắc 4C: Color(màu sắc), Clarity(Độ tinh khiết), Cut(Mài cắt),
Màu sắc
Màu có giá trị nhất của aquamarine là màu xanh lam đậm đến xanh lam hơi ngả xanh lục với cường độ mạnh vừa phải. Nói chung, màu xanh lam càng tinh khiết và càng đậm thì đá càng có giá trị. Hầu hết aquamarine có màu xanh lục nhạt.
AAA
Những viên aquamarine cao cấp nhất phải đáp ứng hai tiêu chí: Tiêu chí thứ nhất là màu sắc tuyệt hảo, đó là màu xanh lam đậm của đại dương hoặc màu xanh của bầu trời. Tiêu chí kèm theo của chất lượng này phải là độ tinh khiết gần như hoàn hảo, eye-clean.
AA / A
Nhưng viên đá ở hạng chất lượng này là dành cho thị trường đại chúng. Màu sắc của nó có thể nhạt hơn, có tone sáng hơn hoặc tối hơn chất lượng cao nhất. Những tỳ vết có nhưng khó thấy bằng mắt thường.
B
Aquamarine có chất lượng này thường sẽ ngả màu xanh lục nhẹ, những tỳ vết có thể thấy được bằng mắt thường. Ở hạng này và trở xuống thì đá thay vì mài facet thì có thể mài hạt, chạm khắc thành tượng và nhiều công dụng khác.
Độ tinh khiết
Hầu hết những viên aquamarine được cắt giác đều rất sạch. Một số tinh thể có thể chứa bao thể là chất lỏng, nhưng những tỳ vết ảnh hưởng đến độ tinh khiết là rất ít hoặc không có ở hầu hết các viên đá quý đã hoàn thiện. Những viên có tỳ vết có thể nhìn thấy bằng mắt thường được tạo hình thành cabochon, hạt tròn hoặc sản phẩm chạm khắc.
Aquamarine có thể được cắt thành hầu hết mọi hình dạng, nhưng những người thợ cắt thường chọn những kiểu như emerald cut hoặc round brilliant cut hoặc oval cut. Nguồn cung đá thô khá phong phú, vì vậy đá thành phẩm có chất lượng cao khá phổ biến. Độ cứng cao và độ trong suốt cao của loại đá quý này khiến nó trở nên phổ biến với các nhà thiết kế, nghệ sĩ và thợ điêu khắc. Các nhà điêu khắc đá quý sử dụng aquamarine cho các kiểu cắt fantasy cut và mài thành các đồ vật trang trí.
Trọng lượng
Các tinh thể Aquamarine có kích thước từ rất nhỏ đến rất lớn – một số thậm chí lên đến 45 kg. Mặc dù các loại đá lớn luôn sẵn có, nhưng rất khó sử dụng chúng làm đồ trang sức, vì vậy nhu cầu về chúng sẽ ít hơn, ngoại trừ những viên đá chủ. Do đó, giá mỗi carat có xu hướng giảm đối với các viên có trọng lượng trên 25 carat.
Aquamarine đã qua xử lý và nhân tạo
Xử lý Aquamarine
Gần như tất cả aquamarine màu xanh lam trên đồ trang sức mà bạn thấy là kết quả của quá trình xử lý nhiệt đối với những viên có màu xanh lục nhẹ, vàng lục, hoặc thậm chí vàng nâu. Xử lý nhiệt loại bỏ thành phần màu vàng và để lại màu xanh lam thuần khiết hơn.
Aquamarine nhân tạo
Mặc dù ở Nga sản xuất aquamarine tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt nhưng nó không được phổ biến rộng rãi. Thay vào đó, các sản phẩm bắt chước aquamarine rất phổ biến, nhất là topaz xanh lam, thủy tinh xanh lam nhạt và Spinel xanh tổng hợp có màu coban. Các phương pháp kiểm tra đá quý tiêu chuẩn dễ dàng phân biệt aquamarine với những loại đá nhái của nó.
Aquamarine – Đặc điểm, vẻ đẹp, nguồn gốc và đánh giá giá trị
Tên của Aquamarine bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là “nước biển” và nó được cho là có tác dụng làm dịu đi những cơn sóng sóng và giữ an toàn cho các thủy thủ trên biển. Thuật ngữ cụ thể “aquamarine” Anselmus de Boodt sử dụng trong một công trình nghiên cứu đá quý quan trọng trong cuốn Gemmarum et Lapidum Historiia của ông, “được xuất bản vào năm 1609. Aquamarine là một loại đá quý có giá trị suốt từ thời cổ đại. Vào thế kỷ 19, loại màu xanh lục biển là phổ biến nhất, nhưng ngày nay, đá càng xanh lam thì càng có giá trị.
Viên đá sinh của tháng ba cũng được cho là có tác dụng nâng cao hạnh phúc của các cuộc hôn nhân. Những viên đá quý tốt nhất là sự kết hợp giữa độ tinh khiết cao với màu xanh lam đến hơi xanh lục. Giống như nhiều khoáng vật beryl khác, aquamarine tạo thành ở dạng các tinh thể lớn thích hợp cho sản phẩm chạm khắc và và những đá quý có kích thước khá lớn.
Đặc điểm của Aquamarine
Aquamarine là loại có màu từ xanh lục đến xanh lam của khoáng chất beryl. (Còn Ngọc lục bảo (emerald) là loại màu xanh lục đến xanh lục của cùng một loại khoáng chất beryl này.) Màu của nó thường là xanh lục nhạt.
Tính chất vật lý
Độ cứng
Độ cứng của aquamarine rơi vào tầm 7.5 tới 8.0. Điều này làm cho loại đá quý này phù hợp với hầu hết các kiểu trang sức.
Độ dai
Độ dai của aquamarine là tốt, và hiện tượng cát khai là rất hiếm gặp. Vì thế loại đá này (nếu không phải là hàng có độ trong cao) thì rất thường được chạm khắc thành các tác phẩm nghệ thuật.
Độ tinh khiết
Nhìn chung aquamarine có độ sạch cao, nhưng viên đá mài giác thường có độ sạch eye-clean.
Kích thước tinh thế
Tinh thể biểu lộ hình thù là trụ lục giác rất cân đối. Loại đá này vì thế là mục tiêu ưa thích của các nhà sưu tập mẫu khoáng vật. Tinh thể lớn nhất được ghi nhận được tìm thấy vào năm 1910, ở Minas Gerais, Brazil. Nó nặng 244 lbs. (110 kg) và dài 19 inch (48 cm) và đường kính 15 inch (38 cm).
Tính chất quang học
Màu sắc
Phạm vi màu của aquamarine rất hẹp: Nó có thể có màu xanh lam, xanh lam hơi ngả xanh lục, xanh lam lục, xanh lam rất đậm hoặc xanh lục lam. Xử lý nhiệt thường làm cho nó có vẻ ngoài ngả màu xanh lam hơn.
Những viên aquamarine thường phải khá lớn — trên 5 carat — để có màu mãnh liệt và đậm. Mặc dù những viên đá nhỏ hiếm khi đủ độ bão hòa màu để trở nên hấp dẫn, đá từ một số mỏ ở châu Phi – ví dụ như Nigeria, Madagascar và Mozambique – được biết đến với màu sắc đậm với kích thước dưới 5 carat. Vì lý do này, những viên đá nhỏ hơn, có màu sắc trên cùng có thể được bán với giá cao hơn trên mỗi carat so với những viên đá cùng màu lớn hơn.
Tính đa sắc
Aquamarine là loại đá có tính đa sắc (pleochroic), có nghĩa là nó có màu khác nhau khi nhìn theo các hướng khác nhau — trong trường hợp của aquamarine, đó là không màu và xanh lam đậm. May mắn thay, màu xanh lam xuất hiện tương ứng với hướng cắt. Trường hợp này mặt table được căn chỉnh song song với chiều dài của tinh thể.
Lịch sử và câu chuyện về Aquamarine
Cái tên “aquamarine” có nguồn gốc từ hai từ Latinh: aqua, nghĩa là “nước” và marina, nghĩa là “của biển.”
Các ngư dân La Mã gọi loại đá quý này là “nước của biển” và sử dụng nó như một vật bảo vệ, cho việc đi lại an toàn bằng thuyền và để đánh bắt cá may mắn. Aquamarine có liên hệ với thánh Thomas, vị tông đồ thường xuyên di chuyển bằng thuyền. Các thầy thuốc La Mã cũng sử dụng nó để điều trị chứng ăn quá nhiều và đầy hơi.
Người Sumer, Ai Cập, Hebrew và Hy Lạp đều ngưỡng mộ đá quý aquamarine. Những hạt đá được phát hiện cùng với các xác ướp Ai Cập. Và người ta tin rằng thầy tế lễ cả của Đền thờ thứ hai đeo những viên đá aquamarine có khắc hình sáu bộ tộc của Israel. Hai nghìn năm trước, những người ở Hy Lạp đã khắc các thiết kế vào đá aquamarine, biến chúng thành hình chạm khắc chìm.
Người ta nói rằng aquamarine mang lại cho người đeo sự bảo vệ chống lại kẻ thù trong trận chiến. Nó làm cho người mang trở nên bất khuất và dễ mến, đồng thời cũng nâng cao trí tuệ người đeo nó.
Aquamarine là đá sinh của tháng ba
Nguồn gốc của Aquamarine
Brazil
Brazil là nguồn cung cấp aquamarine chất lượng cao quan trọng nhất trên thế giới kể từ năm 1811, khi một người thợ mỏ tìm thấy một tinh thể aquamarine lớn ở đáy sông gần Teofilo Otoni. Nó nặng khoảng 7 kg và là tinh thể aquamarine lớn đầu tiên từng được ghi nhận. Kể từ khi phát hiện ra viên tinh thể kỷ lục này, hàng triệu carat aquamarine hảo hạng đã được tìm thấy trong hàng nghìn mỏ khai thác khắp khu vực.
Khi những người nhập cư Đức định cư ở Brazil vào khoảng năm 1850, họ phát hiện ra rằng họ có thể đào aquamarine hầu hết mọi nơi, với hầu hết mọi loại thiết bị và tạo ra các tinh thể aquamarine. Ai đó đã gửi những vật mẫu đến Idar-Oberstein – lúc đó cũng như bây giờ, là một trung tâm cắt mài đá quý quan trọng – để kiểm tra. Đó là sự khởi đầu của mối quan hệ khai thác – tiếp thị chặt chẽ giữa thợ mỏ Brazil và thợ cắt Đức. Hầu hết các mỏ aquamarine nằm ở phía đông bắc Minas Gerais. Trong lịch sử, aquamarine và các loại đá quý khác được tìm thấy dưới đáy sông hoặc đã được đào lên khỏi mặt đất bởi những người khai thác độc lập gọi là garimpeiros. Bởi vì luật mới khiến các garimpeiros khó hoạt động, một phần nhiều các hoạt động khai thác ở đây đã được cơ giới hóa.
Pakistan
Trong những thập kỷ gần đây, trên thị trường có một nguồn cung aquamarine ổn định đến từ miền bắc Pakistan. Aquamarine được khai thác chủ yếu từ vùng Gilgit-Baltistan, bao gồm Thung lũng Shigar, cũng như Thung lũng Hunza và Braldu.
Hầu hết aquamarine từ miền bắc Pakistan có dạng hình lăng kính dài hình lục giác và có thể dài tới hàng chục cm. Albite, muscovite và tourmaline (schorl) thường được kết hợp với nhau dưới dạng ma trận, vì thế hầu hết chúng được sưu tầm dưới dạng mẫu vật khoáng chất. Một phần trong số đó chất lượng đá quý và phù hợp để sử dụng làm đồ trang sức.
Con đường Aquamarine
Câu chuyện của bộ phim này là cuộc tìm kiếm một loại đá quý, đặc biệt về hình thức và quyến rũ về màu sắc của bầu trời của nó: aquamarine.
Trong các thung lũng của dãy Karakoram ở phía bắc Pakistan, một phần mở rộng của dãy Himalaya nơi có những ngọn núi cao hơn 8.000 mét, người ta tìm thấy những viên đá tuyệt vời này trong một mỏ nằm trên cao.
Cuộc hành trình này sẽ đưa chúng ta băng qua Pakistan đi qua Lahore, một thành phố là nơi ở của những đô vật làm gợi nhớ đến những Sumo của nhật: truyền thống của họ có từ thời tổ tiên và những phong tục của họ thật đáng kinh ngạc; sư tử đối với họ là người bạn đồng hành.
Các con đường dẫn đến phía Bắc với những chiếc xe tải được trang trí như những tạo vật của nghệ thuật, gợi nhớ cho chúng ta những đoàn lữ hành cổ men theo Con Đường Tơ Lụa.
Vào cuối cuộc hành trình, trong một ngôi làng nằm trên độ cao hơn 3.000 mét, những người chăn cừu giờ đây trở thành những người thợ mỏ khai thác mỏ Chumar Bakar. Sản phẩm chủ yếu của họ là các khối tinh thể aquamarine, một số có trọng lượng vài kg. Niềm tin cổ xưa khiến họ phải tham khảo ý kiến của một pháp sư trước khi ra đi để bảo vệ mình khỏi cơn thịnh nộ của các tiên nữ ngự trị trên những ngọn núi này. Những viên đá được khai thác sẽ theo cùng một tuyến đường ấy để trở về, và chúng sẽ kết thúc cuộc hành trình của mình tại các tiệm kim hoàn tại Place Vendôme ở Paris.
Trung Quốc
Vào những năm 1990, Trung Quốc nổi lên như một nước sản xuất số lượng lớn aquamarine kích thước nhỏ có chất lượng thương mại. Phần lớn aquamarine ở Trung Quốc được khai thác ở huyện Phú Uẩn thuộc khu tự trị Tân Cương, Vào giữa những năm 1990, aquamarine từ khu vực đã thâm nhập vào thị trường châu Âu và Mỹ thông qua Quảng Châu, Thâm Quyến và những nơi khác, và giành được sự yêu thích của người tiêu dùng vì giá rẻ và độ sẵn có.
Hầu hết các aquamarine đến từ Trung Quốc có kích thước nhỏ, sạch và có màu rất nhạt. Chúng được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các đồ trang sức trên thị trường đại chúng thông qua các mạng lưới mua sắm tại nhà và các chuỗi cửa hàng khác.
Việt Nam
Aquamarine được phát hiện ở Việt Nam vào năm 1985 tại làng Xuân Lễ (huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong quá trình lập bản đồ địa chất của chính phủ. Theo các người bán ở địa phương, khoảng 100–150 kg đá quý được người dân địa phương khai tháchàng năm trong suốt thập kỷ qua, và trong năm 2010, khoảng 300–400 kg đã được khai thác.
Aquamarine Việt Nam nổi tiếng với màu sắc hấp dẫn và các tinh thể có hình dạng tốt. Tuy nhiên vì phương pháp khai thác thô sơ và só lượng sản phẩm hạn chế, cho đến nay, chỉ một số ít đá quý được chế tác và chủ yếu được bán vào thị trường Việt Nam
Đánh giá giá trị của Aquamarine
Trên thị trường thương mại, aquamarine và topaz xanh thường được nhắc đến khi người mua muốn chọn một viên đá quý có màu xanh. Nhưng aquamarine cao cấp được bán với giá cao hơn nhiều so với topaz xanh có chất lượng tương đương. Cũng như nhiều loại đá quý trong suốt khác, aquamarine được đánh giá theo nguyên tắc 4C: Color(màu sắc), Clarity(Độ tinh khiết), Cut(Mài cắt),
Màu sắc
Màu có giá trị nhất của aquamarine là màu xanh lam đậm đến xanh lam hơi ngả xanh lục với cường độ mạnh vừa phải. Nói chung, màu xanh lam càng tinh khiết và càng đậm thì đá càng có giá trị. Hầu hết aquamarine có màu xanh lục nhạt.
AAA
Những viên aquamarine cao cấp nhất phải đáp ứng hai tiêu chí: Tiêu chí thứ nhất là màu sắc tuyệt hảo, đó là màu xanh lam đậm của đại dương hoặc màu xanh của bầu trời. Tiêu chí kèm theo của chất lượng này phải là độ tinh khiết gần như hoàn hảo, eye-clean.
AA / A
Nhưng viên đá ở hạng chất lượng này là dành cho thị trường đại chúng. Màu sắc của nó có thể nhạt hơn, có tone sáng hơn hoặc tối hơn chất lượng cao nhất. Những tỳ vết có nhưng khó thấy bằng mắt thường.
B
Aquamarine có chất lượng này thường sẽ ngả màu xanh lục nhẹ, những tỳ vết có thể thấy được bằng mắt thường. Ở hạng này và trở xuống thì đá thay vì mài facet thì có thể mài hạt, chạm khắc thành tượng và nhiều công dụng khác.
Độ tinh khiết
Hầu hết những viên aquamarine được cắt giác đều rất sạch. Một số tinh thể có thể chứa bao thể là chất lỏng, nhưng những tỳ vết ảnh hưởng đến độ tinh khiết là rất ít hoặc không có ở hầu hết các viên đá quý đã hoàn thiện. Những viên có tỳ vết có thể nhìn thấy bằng mắt thường được tạo hình thành cabochon, hạt tròn hoặc sản phẩm chạm khắc.
Aquamarine có thể được cắt thành hầu hết mọi hình dạng, nhưng những người thợ cắt thường chọn những kiểu như emerald cut hoặc round brilliant cut hoặc oval cut. Nguồn cung đá thô khá phong phú, vì vậy đá thành phẩm có chất lượng cao khá phổ biến. Độ cứng cao và độ trong suốt cao của loại đá quý này khiến nó trở nên phổ biến với các nhà thiết kế, nghệ sĩ và thợ điêu khắc. Các nhà điêu khắc đá quý sử dụng aquamarine cho các kiểu cắt fantasy cut và mài thành các đồ vật trang trí.
Trọng lượng
Các tinh thể Aquamarine có kích thước từ rất nhỏ đến rất lớn – một số thậm chí lên đến 45 kg. Mặc dù các loại đá lớn luôn sẵn có, nhưng rất khó sử dụng chúng làm đồ trang sức, vì vậy nhu cầu về chúng sẽ ít hơn, ngoại trừ những viên đá chủ. Do đó, giá mỗi carat có xu hướng giảm đối với các viên có trọng lượng trên 25 carat.
Aquamarine đã qua xử lý và nhân tạo
Xử lý Aquamarine
Gần như tất cả aquamarine màu xanh lam trên đồ trang sức mà bạn thấy là kết quả của quá trình xử lý nhiệt đối với những viên có màu xanh lục nhẹ, vàng lục, hoặc thậm chí vàng nâu. Xử lý nhiệt loại bỏ thành phần màu vàng và để lại màu xanh lam thuần khiết hơn.
Aquamarine nhân tạo
Mặc dù ở Nga sản xuất aquamarine tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt nhưng nó không được phổ biến rộng rãi. Thay vào đó, các sản phẩm bắt chước aquamarine rất phổ biến, nhất là topaz xanh lam, thủy tinh xanh lam nhạt và Spinel xanh tổng hợp có màu coban. Các phương pháp kiểm tra đá quý tiêu chuẩn dễ dàng phân biệt aquamarine với những loại đá nhái của nó.