Tính chất vật lý

Khi có nhu cầu xác định hoặc định giá một viên đá quý, nó được gửi đến một chuyên gia – nhà ngọc học (gemologist), người được chứng nhận bởi một cơ quan đá quý chuyên nghiệp. Nhà ngọc học sẽ kiểm tra đá quý với các tính chất vật lý và quang học khác nhau để xác định và đánh giá chất lượng của nó. Một yếu tố quan trọng của chất lượng đá quý là độ bền. Tính chất vật lý của đá quý xác định độ bền của nó và mức độ dễ bị mòn, vỡ và hư hỏng cũng như chất lượng màu sắc của nó. Lưu ý rằng đá quý có độ phân tách tốt (xem bên phải) có thể rất cứng nhưng vẫn dễ bị nứt.

Độ cứng Mohs

Một trong những yếu tố chính quyết định độ bền là độ cứng Mohs, là độ dễ hoặc khó tương đối mà nó có thể bị trầy xước. Đo theo thang Mohs, độ cứng Mohs không phải là độ cứng theo ý nghĩa thông thường, vì các khoáng chất rất cứng cũng có thể khá giòn. Đá quý dưới 5 trên thang đo quá mềm để đeo và thậm chí  6 hoặc 7 cũng có thể dễ bị trầy xước và mài mòn.

Khối lượng riêng

Khối lượng riêng (SG) là thước đo mật độ của một chất so với nước, là cách xác định độ đặc của đá quý. Nó được đo bằng tỷ lệ giữa khối lượng của chất và khối lượng của một thể tích nước bằng nhau, do đó, một khoáng chất có SG là 2 thì nặng gấp đôi nước. Trọng lượng riêng có thể được xác định bằng cách sử dụng bằng cách loại cân, hoặc chất lỏng chuyên dụng cho phép các khoáng chất có SG thấp hơn một mức nhất định nổi lên và các khoáng chất có SG cao hơn mức ấy thì chìm xuống. Tuy nhiên, các chuyên gia thường có thể đánh giá trọng lượng riêng của một viên đá quý hoàn toàn bằng độ chì của nó.

Phân tách

Phân tách là thuộc tính của một khoáng chất làm cho nó có thể bị phá vỡ dọc theo các lớp nguyên tử của nó, vị trí mà các lực liên kết các nguyên tử là yếu nhất. Một số đá quý có sự phân tách theo nhiều hướng, một số hướng trong đó có thể rất dễ bị tách, vì vậy viên đá có thể có thể dễ dàng bị phá vỡ nếu bị tác động mạnh. Bởi vì vỡ ra – phân tách – theo các mặt phẳng nguyên tử, nên bề mặt phân tách thường trơn tru.

Sự phân tách hoàn hảo là sự phá vỡ của một khoáng chất dọc theo mặt phẳng nguyên tử, trong đó các liên kết yếu nhất là nơi vỡ ra để lại một bề mặt phẳng.

Vệt màu

Vệt là màu của bột khoáng chất, được xác định bằng cách chà một mảnh khoáng chất trên một mảnh sứ không tráng men, để lại một vệt màu. Điều này có thể được sử dụng để nhận dạng, đặc biệt là với các khoáng chất có các màu sắc khác nhau.

Vệt màu có thể đồng nhất về khoáng chất hơn màu sắc thực tế của khoáng chất ấy. Như vậy một khoáng chất có thể  có nhiều màu khác nhau nhưng khi chà lên bề mặt mảnh đá thử chỉ cho thấy một vệt màu. Trong ví dụ này, chủng loại có màu sắc khác nhau của khoáng chất fluorite thô được trình bày. Trong một thử nghiệm vệt màu, các mẫu fluorite màu tím, cam và xanh lục đều cho ra một vệt trắng.

Vết vỡ

Vết vỡ là một cách khác để mô tả cách một khoáng chất bị phá vỡ. Tuy nhiên, trong vết vỡ, sự phá vỡ diễn ra trên các mặt phẳng nguyên tử của khoáng chất , thay vì dọc theo chúng như trong sự phân tách, bởi vì không có mặt phẳng vỡ rõ ràng. Vết vỡ đặc biệt có thể giúp xác định khoáng chất đó là gì.

Vết vỡ vỏ sò (conchodial fracture) là nơi vỡ có bề ngoài giống như vỏ sò. Thạch anh và đá quý thủy tinh, chẳng hạn như obsidian, cho thấy vết vỡ vỏ sò .

Vết vỡ đều (even fracture) có bề mặt bị vỡ có kết cấu thô, nhưng bằng phẳng.

Vết vỡ không đều (uneven fracture), như trong chalcopyrite ở trên, có bề mặt sần sùi và không đều.

Vết vỡ răng cưa cho thấy một bề mặt không bằng phẳng với các cạnh sắc nhọn và các lởm chởm. Nó là đặc trưng của kim loại bị vỡ hoặc rách và một số khoáng chất khác.

Xin chờ…
  • Chưa có sản phẩm trong giỏ hàng.

Tra cứu đá theo mệnh